Trích Một Quan Niệm Về Sống Đẹp - Nguyên tác: The Importance Of Living
Tác giả: Lâm Ngữ Đường (Lin YuTang)

Thực
là ngược đời, cái triết học "giảo hoạt" của Lão tử lại sản sinh ra cái
lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản phác và tri túc.
Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn
dật, xử thế nên nhu nhược và tánh tình nên giản phác. Ngay đến nghệ
thuật Trung Hoa, từ thi ý, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình
dị của tiều phu, ngư phủ cũng không thể thoát ly triết học đó mà tồn
tại. Nguồn gốc của chủ nghĩa hòa bình của Trung Hoa là do cái quan niệm
chịu nhận sự thất bại tạm thời để chờ cơ hội thuận tiện, và do lòng tin
rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo cái luật vận hành phản phục; do
đó không một kẻ nào vĩnh viễn "u mê" bao giờ.
Người rất khéo thì như vụng
Người nói giỏi thì như lắp bắp
Cử động thì thắng được lạnh
Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng.
Vậy cứ thanh tĩnh thì mọ.i vật sẽ đâu vào đấy.Biết
vậy rồi thì còn cạnh tranh làm gì nữa. Cho nên Lão Tử bảo bực thánh
nhân "không tranh với ai nên không ai tranh được với mình", lại bảo: "Kẻ
hùng hổ nào mà không bất đắc kỳ tử, thì ta xin nhận n kẻ đó làm thầy".
Một nhà văn ngày nay có thể thêm vào câu đó: "Kẻ độc tài nào mà không
dùng mật thám để hộ vệ thì tôi xin tôn làm thủ lãnh". Cho nên Lão Tử
nói: "Thiên hạ có đạo thì người ta dùng ngựa để kéo và lấy phân; thiên
hạ vô đạo thì người ta nuôi ngựa chiến ở ngoài thành".
Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước (1)
Người chiến đấu giỏi không giận dữ,
Khéo thắng địch là không tranh với địch,
Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người.
Đó là cái đức của sự không tranh,
Đó là cái khéo của sự dùng người,
Đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.Có cái quy luật động lực và phản động lực rồi mới sản sinh ra cục thế bạo lực đối với bạo lực.
Ai lấy Đạo mà phò vua,
Thì không dùnh binh mà bức thiên ha.
Vì việc như vậy thường quay trở về
(nghĩa là dùng binh bức thiên hạ thì lại bị thiên hạ dùng binh bức lại mình). (2)
Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy.
Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.
Vậy khéo thắng rồi (khéo đạt được mục đích cứu dân) thì thôi đi, mà không lợi dụng thắng lợi để bức người.(3)
Thắng mà không khoe khoang,
Thắng mà không tự khen,
Thắng mà không kiêu căng,
Thắng vì bất đắc dĩ.
Thắng mà không bức người,
Vì vật mạnh thì có lúc suy.
(Nếu không) Như vậy (thì) là trái Đạo.
Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt.
Tôi
có cảm tưởng rằng nếu Lão Tử được làm chủ tịch hội nghị Versailles (4)
thì ngày nay không có Hitler (5). Hitler tuyên bố rằng ông và sự nghiệp
chính trị của ông tất được "Chúa phù hộ" (nên ông mới thành công mau như
vậy). Tôi thì tôi cho rằng việc đó giản dị hơn nhiều: chẳng có Chúa nào
phù hộ cả, chỉ có Clémenceau phù hộ mà thôi (6). Chủ nghĩa hòa bình của
Trung Hoa không phải là chủ nghĩa nhân đạo mà là chủ nghĩa "giảo hoạt",
cơ sở không phải là đạo bác ái mà là một thứ minh triết vi diệu, cận
nhân tình.
Sắp muốn rút lại tất phải mở ra đã;
Sắp muốn làm yếu đi, tất phải làm mạnh lên đã;
Sắp muốn vứt bỏ đi, tất phải làm dấy lên đã;
Sắp muốn cướp lấy, tất phải cho đã;
Thế gọi là làm mờ ánh sáng đi. (7)
Nhu nhược thắng cương cường.
Cá không nên ra khỏi vực;
Lợi khí của quốc gia, không nên cho dân biết.
Thuyết
về sức mạnh của sự nhu nhược, vì lẽ biến hóa thì sẽ thắng, và lẽ ẩn dật
bao giờ cũng có lợi, thì tôi chưa thấy ai có giọng mạnh mẽ, sâu sắc
bằng Lão Tử trong đoạn đó. Ông cho nước tượng trưng sức mạnh của nhu
nhược - nó cứ nhẹ nhẹ rỏ từng giọt xuống mà *****c được đá, nó có cái
"trí" vĩ đại của đạo Lão là luôn luôn tìm chỗ thấp mà ở:
Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang
Vì nó khéo ở chỗ thấp hơn cả;
Nhờ vậy nó làm vua được trăm hang.
(Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả,
dĩ kỳ thiên hạ chi,
cố năng vi bách cốc vương).
Chữ
"cốc" (hang) trong học thuyết Lão Tử còn trỏ cái gì rỗng, tượng trưng
cái tử cung của mẹ vạn vật, tức tượng trưng khí âm hoặc giống cái:
Thần hang bất tử,
Cho nên gọi là Huyền Tẫn (8)
Là gốc của Trời, Đất.
Dằng dặc như còn hoài,
Dùng hoài mà không hết.
Lấy giống cái đại biểu cho văn hóa phương Đông và giống đực đại biểu cho văn hóa phương Tây có lẽ không phải là khiên cưỡng.
Jules
César muốn được làm người thứ nhất trong làng, Lão Tử trái lại, "không
dám ở trước thiên hạ" (bất cảm vi thiên hạ tiên). Trang Tử cho rằng nổi
danh là một điều nguy hiểm, và diễn ý đó trong đoạn văn phúng thích dưới
đây để chê Khổng Tử là hay khoe tri thức cùng hành vi của mình. Trong
bộ Trang Tử có nhiều chỗ bịa đặt ra để bài xích Khổng Tử vì lúc đó Khổng
Tử đã mất rồi mà ở Trung Quốc thời xưa cũng không có luật pháp trị tội
hủy hoại danh dự của người khác.
"Khổng Tử bị vây ở khoảng giữa nước Trần và nước Sái, bảy ngày không có cơm ăn. (9)
Quan đại công tên là Nhiệm lại chia buồn, hỏi:
- Ông đã suýt chết ?
Khổng Tử đáp:
- Phải.
- Ông sợ chết không ?
- Sợ.
Nhiệm bảo:
-
Vậy, tôi xin giảng cái đạo bất tử. "Ở Đông Hải có loài chim tên là Ý
đãi. Loài đó chậm chạp, từ tốn như vụng về; bay cùng đoàn với nhau, con
trước con sau, chen lấn nhau mà đậu. Khi tiến không con nào tranh bay
trước, khi lui không con nào dám ở lại sau; khi ăn không con nào dám ăn
trước, đợi những đồ thừa. Cho nên loài đó được sống yên ổn ở trong hàng,
người ngoài không hại được nó, mà nó tránh được họa.
"Cây thẳng
thì bị đốn trước. Giếng nước ngọt thì cạn trước. Ông có ý tô điểm tri
thức để làm cho bọn ngu phải sợ, sửa cái thân để làm rõ kẻ xấu xa. Ông
rực rỡ như giơ cao mặt trời mặt trăng mà đi, cho nên không tránh được
họạ..".
Khổng Tử đáp:
" Lời ông thật hay!". Rồi từ chối sự
giao du, bỏ cả đệ tử, trốn trong một cái trằm lớn (chỗ hoang vu), làm
lấy áo cừu áo cát mà bận, hái hột cây thử, cây lật mà ăn, nhập bầy với
đàn thú, đàn chim mà thú chim không để ý tới".
Tôi đã làm một bài thơ tóm tắt tư tưởng Đạo gia như sau:
Có cái sáng suốt của sự ngu muội.
Có cái thanh nhã của sự hòa hoãn.
Có cái cơ xảo của sự trì độn.
Có cái hữu ích của sự ẩn cư.Mấy
câu đó chắc làm cho những độc giả theo đạo Ki Tô nhớ lại lời "Thuyết
giáo trên núi". Và chắc họ cho rằng đều vô hiệu lực như nhau. Lão Tử còn
bảo kẻ ngu được phúc vì họ là những kẻ sung sướng nhất đời. Trang Tử
theo cái thuyết "Người rất khéo thì như vụng, người nói giỏi thì như lắp
bắp" và khuyên ta phải "liệng bỏ cái trí" đi (khí trí). Thế kỷ thứ tám,
Liễu Tôn Nguyên đặt tên cho một ngọn núi gần chỗ ông ở là "Núi Ngu"
(Ngu Sơn) và dòng suối nơi đó là "Suối Ngu" (Ngu Khê). Thế kỷ mười tám,
Trịnh Bản Kiều có một câu danh ngôn: "Thông minh khó, hồ đồ cũng khó, do
thông minh mà đạt được hồ đồ lại càng khó". Trong văn học Trung Hoa có
nhiều câu tán tụng sự ngu độn như câu đó. Người Mỹ có câu: "Đừng nên
tinh ranh quá" (Don't be too smart), cũng là cái nghĩa: người đại trí
thường có vẻ ngu.
Vì vậy mà trong văn hóa Trung Hoa người ta
thường thấy hiện tượng lạ lùng này là bậc đại trí phát sinh lòng hoài
nghi đối với mình và cho rằng vũ khí tốt nhất trong cuộc tranh đấu trên
đời là sự tôn sùng ngu độn và sự ẩn dật. Từ cái thuyết "khí trí" của
Trang Tử đến sự tôn sùng kẻ ngu chỉ có một bước ngắn; và trong văn
chương cùng hội họa của Trung Hoa ta thấy hình ảnh của nhiều người hành
khất, nhiều nhà ẩn dật bất hủ, nhiều nhà sư điên, hoặc những đạo sĩ kỳ
dị, như trong tập "Minh Liêu tử du"; đó toàn là phản ảnh quan niệm tôn
sùng kẻ ngu độn cả. Khi một nhà sư điên lam lũ được ta coi là tượng
trưng cho cái trí tuệ rất cao, cái tư cách rất quý, thì trong cái bến mê
là cõi đời này, ta bỗng tỉnh ngộ; trong sự tỉnh ngộ đó có cái ý vị lãng
mạn hoặc tôn giáo nó đưa ta vào cảnh giới ảo tưởng của tho.
Kẻ
ngu được hoan nghênh, đó là một sự thực không chối cãi được. Tôi tin
rằng ở phương Đông cũng như phương Tây, người ta ghét những kẻ tinh ranh
quá trong sự giao thiệp. Viên Trung Lang đã kể lý do tại sao mấy anh em
ông đều thích giữ bốn tên gia bộc cực ngu nhưng trung tín. Chúng ta cứ
nhớ lại những tên bạn bè của mình rồi kiểm soát xem có phải những bạn ta
mến không phải là những người mà ta trọng vì tài khôn lanh; và những
bạn ta trọng vì tài khôn lanh không phải là những người mà ta mến. Chúng
ta thích một tên gia bộc ngu độn vì hắn đáng tin hơn, đối với hắn ta
không cần phải đề phòng. Nhiều người đàn ông khôn không muốn cưới người
vợ tinh lanh quá mà nhiều thiếu nữ khôn cũng vậy, không muốn có người
chồng tinh lanh quá. Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều người điên, hoặc
điên thật hoặc giả điên mà được nổi danh, được người ta kính yêu. Như
họa sĩ Mễ Phí, có lần bận lễ phục tới lạy một phiến đá, gọi phiến đá đó
là "ông Nhạc", vì vậy mà có danh hiệu là ông Mễ Điên. Ông ta với Nghê
Vân Lâm, một họa sĩ danh tiếng đời Nguyên đều mê sự sạch sẽ. Lại như thi
sĩ điên nổi danh, hòa thượng Hà Sơn, đầu bù, chân không, đi lại các
ngôi chùa, làm mọi việc lặt vặt trong cái nhà khói (nhà bếp của chùa),
xin cơm thừa căn cặn mà ăn và làm được những bài thơ bất hủ viết lên
tường các nhà khói. Vị hòa thượng điên được người Trung Hoa ái mộ nhất
là hòa thượng Tế Điên., cũng gọi là Tế Công (ông Tế); đời ông sau được
người ta chép thành một chuyện dài gấp ba bộ Don Quichotte mà vẫn chưa
hết. Ông sống một đời ma thuật, làm thuốc, say rượu, và như có thần lực,
có thể cùng một lúc xuất hiện ở hai nơi cách nhau cả trăm dặm. Miếu thờ
ông hiện nay ở Hổ Bào, trên bờ Tây Tử Hồ ở Hàng Châu. Những thiên tài
lãng mạn, vĩ đại, thế kỷ mười sáu và mười bảy, như Từ Văn Trường, Lý
Trác Ngô, Kim Thánh Thán(ông này tự đặt tên hiệu là Thánh thán (nghĩa là
tiếng thở dài của Thánh) là vì, theo ông, đúng lúc ông sanh ra đời, ở
miếu thờ Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài bí mật). Tuy
các vị đó cũng là những người bình thường như chúng ta nhưng bề ngoài
có những cử chỉ trái hẳn thói thường, cho nên người đời gọi là cuồng.
Đạo Đức Kinh - Lão Tử ( dich tu tieng anh)
Có
một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng
một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng,
có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó
là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.
Đạo trời không tranh mà khéo
thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô
tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.
Lời
nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật.
Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào
phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người biết thì không
nói, người nói là người không biết.
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng.
Cho
nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì
vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở
dưới, mềm yếu lại được ở trên.
Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm,
cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu
nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi,
một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [quả
cảm, cương cường]?
Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó
tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó.
Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì
khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có nghĩa là không có gì cả nhưng
phải có cái gì thì mới có cái không có.
Cái gì an định thì dễ
nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa
manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình.
Cây lớn một ôm, khởi
sinh từ một cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi
xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.
Người ta làm việc , thường gần
tới lúc thành công thì lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu,
dè sau như trước thì không hỏng việc.
Người hiểu đạo trị thiên
hạ theo chính sách vô vi, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái
lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn
dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi
từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm
việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn.
Đạo lớn bị bỏ rồi mới
có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa
rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung.
Trời
đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ
như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ
thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu
tàn...].
Khoảng giữa trời đất như cái ống hơi; hư không mà không
kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn
cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.
Muốn cho vật gì thu rút lại thì
tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ
mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy
vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu
nhược thắng được cương cường.
Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt;
ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi
ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi
người ta đồi bại. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà ko cầu vui mắt, bỏ
cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải
thô mà ôm ngọc quý trong lòng.
Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Vì
vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở
trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải
vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư ?
Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất.
Không
trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không
trộm cắp, không phô bày cái gì gợi ham muốn, để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương cốt thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn mà bọn mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị.
Không
học thì không phải lo. Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, "hữu vi"
càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, vô vi càng tăng.
Ta
có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính
tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra
dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng
trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.
Nếu không nhân ái mà
mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu
đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn cứu ai
thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp
người đó.
Người sáng suốt nghe đạo thì gắng sức mà thi hành,
người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe đạo
thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?
Nước là
vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn].
Nước là vật cực kì mềm mại, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường],
ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành
sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến
đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới,
gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới
được.
Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Ráng giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại không bén lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà giữ nổi ? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.
Ba
mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái bánh, nhưng chính nhờ khoảng trống
không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát,
nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng
được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà
mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "không" mới làm cho cái "có" hữu ích.
Người
đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh
ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh ra rối loạn ? Là vì vinh
thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất
thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra
rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có
cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra
rối loạn nữa ?!
Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.
Ai
có thể đang *****c mà lắng xuống để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư
tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên ? Người nào giữ được đạo ấy
thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể
bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được.
Kẻ đứng 1 chân thì
không thể đứng được lâu, kẻ xoạc chân ra thì không thể đi được, kẻ tự
biểu hiện mình thì không bao giờ chói lọi, kẻ tự kể công thì không có
công, kẻ tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì
không trường cửu. Thái độ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai
ai cũng ghét.
Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà phát sinh ra
quan niệm cái xấu; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát sinh ra
quan niệm về cái ác. Tại sao con người thích cái đẹp mà lại không thích
cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên
lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại ...
Kẻ biết người là
người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có
sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người
giàu; kẻ gắng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều trên thì
sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.
Hồn nhiên, vô
tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt
như vậy không phải là dễ. Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko chích, mãnh thú
không ăn thịt, ác điểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt,
suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.
Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt trí xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.
Ba
cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ bề ngoài không
đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc
mạc, trong thì giữ sự giản phác, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích
cực.
Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao
nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không
thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, không sao hết được.
Mọi
người hớn hở như hường bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta
điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết cười, rũ rượi
mà đi như không có nhà để về. Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu
thốn, lòng ta ngu muội, đần độn thay ! Mọi người đều có chỗ để dùng,
riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người mà quý mẹ của muôn loài
(tức đạo)
Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử,
trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở lại cái bản thể của
nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra
vạn vật. Chúng ta do đâu biết được bản chất vạn vật ? Đó là do đạo.
Thánh
nhân ôm giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho
nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công
nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không
tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
Người xưa bảo:
"Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên
chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn
mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước
tự nhiên.
Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi
suốt buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Chính
là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người ?
Vì
binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên
người giữ đạo không dùng binh khí. Bất đắc dĩ phải dùng đến nó, mà dùng
đến thì điềm đạm là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay
tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không trị được
thiên hạ.
Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên
phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng
thì nên lấy tang lễ mà xủ
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU PHONG THỦY ỨNG DỤNG
Phòng Phong Thủy Kinh Dịch Vận Mệnh
Hotline: 0705.386.386